Việc cứu giúp người bị nạn không chỉ là vấn đề đạo đức,tình nghĩa mà còn là nghĩa vụ, trách nhiệm của mỗi công dân.
Theo quy định của pháp luật không phải chỉ hành vi xâm hại tới người khác hoặc gây nguy hiểm cho xã hội mới bị xử lý mà cả hành vi không hành động đôi khi cũng có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự cụ thể:
Theo quy định tại Điều 132, Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định:
“ 1. Người nào thấy người khác đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, tuy có điều kiện mà không cứu giúp dẫn đến hậu quả người đó chết, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Người không cứu giúp là người đã vô ý gây ra tình trạng nguy hiểm;
b) Người không cứu giúp là người mà theo pháp luật hay nghề nghiệp có nghĩa vụ phải cứu giúp.
3. Phạm tội dẫn đến hậu quả 02 người trở lên chết, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm.
4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”.
Như vậy khi một người có đủ điều kiện để cứu giúp người khác đang bị đe dọa tới tính mạng mà không cứu giúp dẫn tới hậu quả người đó chết sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự.
Có thể nói dấu hiệu để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội này như sau:
- Người phạm tội thấy người khác gặp nạn, tính mạng đang bị đe dọa và không có hành động cứu giúp nạn nhân
- Người phạm tội phải là người có đủ điều kiện để cứu giúp
- Hậu quả chết người xảy ra
Hình phạt cao nhất đối với tội không cứu giúp người trong tình trạng nguy hiểm tới tính mạng lên đến 7 năm tù, đồng thời có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung như cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Căn cứ theo Điều 27 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự với tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng như sau:
- Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là thời hạn do Bộ luật Hình sự 2015 quy định mà khi hết thời hạn đó thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
- Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định như sau:
+ 05 năm đối với tội phạm ít nghiêm trọng;
+ 10 năm đối với tội phạm nghiêm trọng;
+ 15 năm đối với tội phạm rất nghiêm trọng;
+ 20 năm đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
- Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được tính từ ngày tội phạm được thực hiện. Nếu trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều 27 Bộ luật Hình sự 2015, người phạm tội lại thực hiện hành vi phạm tội mới mà Bộ luật Hình sự 2015 quy định mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy trên 01 năm tù, thì thời hiệu đối với tội cũ được tính lại kể từ ngày thực hiện hành vi phạm tội mới.
Nếu trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều 27 Bộ luật Hình sự 2015, người phạm tội cố tình trốn tránh và đã có quyết định truy nã, thì thời hiệu tính lại kể từ khi người đó ra đầu thú hoặc bị bắt giữ.
Như vậy, nếu phạm tội ở khung 1 thì thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là 05 năm kể từ khi tội phạm được thực hiện; phạm tội ở khung 2, 3 thì thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là 10 năm kể từ khi tội phạm được thực hiện. Nếu có hành vi phạm tội mới, trốn tránh thì thời hiệu sẽ được tính lại theo quy định
Công ty Luật Thuận Đức – Luôn sẵn lòng hỗ trợ bạn trong mọi vấn đề pháp lý!
-------------------------
Văn phòng làm việc: Số 6 Kim Đồng, phường Giáp Bát, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội.
Hotline: 0966.846.783
Email: congtyluatthuanduc@gmail.com
Website: http://luatthuanduc.vn
Facebook: https://www.facebook.com/profile.php?id=100094722411349